SÁNG KIẾN
CHĂM SÓC VÀ VỆ SINH RĂNG MIỆNG
CỦA HỌC SINH THCS TẠI XÃ TRẦN THỚI,
HUYỆN CÁI NƯỚC NĂM 2011
Ngày nay, khi mà giao tiếp và các mối quan hệ xã hội ngày
càng được mở rộng, giá trị của sức khỏe răng miệng và thẩm mỹ vì vậy cũng được
nâng cao một cách rõ rệt. Mức độ nghiêm trọng của bệnh răng miệng
được đánh giá tương tự như các bệnh
mạn tính khác, có khả năng ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống ngay từ
thời ấu thơ cho đến tận tuổi già. Gánh nặng tốn kém của các bệnh
về răng miệng chiếm từ 5% đến 10% tổng chi phí cho điều
trị các bệnh tim mạch, ung thư, loãng xương ở
các nước phát triển[8]
Theo thống kê của Viện Răng Hàm Mặt Quốc Gia, 99,4% dân số
Việt Nam
mắc các bệnh răng miệng. Tỉ lệ sâu răng ở độ tuổi dưới 18 là gần
90% (với 2,84 chiếc răng sâu/người) [10]. Ngành Y tế nước ta đã và đang có những
sách lược ứng phó nhằm cải thiện tình trạng trên. Một trong những chiến lược được
xem là hiệu quả nhất là sự đầu tư đến việc giáo dục nâng
cao kiến thức về sức khỏe răng miệng tại các trường học
[11]. Nhu cầu đặt ra là cần phải có những nghiên cứu lượng giá kiến thức, thái
độ và thực hành về vệ sinh răng miệng của học sinh, làm cơ sở
cho các chương trình can thiệp của nha khoa phòng ngừa. Tại xã Trần
Thới nói riêng và trong huyện Cái Nước nói chung, những nghiên cứu như vậy
càng cần thiết hơn. Tình trạng sức khỏe răng miệng tại địa phương nằm
trong xu hướng chung của cả nước và hiện vẫn chưa có
nghiên cứu
nào về vệ sinh răng miệng được tiến hành.
Được kết quả nghiên cứu này sẽ chỉ ra một số điểm hạn chế trong kiến thức, thực hành về vệ sinh răng miệng của học sinh, đồng thời đưa ra kiến
nghị định hướng cho công tác giáo dục truyền thông chương trình chăm sóc răng miệng tại địa phương
có hiệu quả trong việc vệ sinh răng miệng và đem lại sức khỏe tốt cho thế hệ
mai sau
Mục tiêu sáng kiến
Xác định tỉ lệ học sinh có kiến thức, thực hành đúng
và tỉ lệ tiếp cận
các nguồn thông tin về vệ sinh răng miệng của học sinh
THCS tại xã Trần Thới, huyện Cái Nước năm
2011.
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN
2.1. Cơ sở lý luận
Cùng với quá trình
phát triển và hoàn thiện các cơ quan, chức năng khác của cơ thể, tuổi học đường
cũng là thời gian cho trẻ hoàn thiện hàm răng của mình. Nhưng cũng chính trong
thời gian này, có rất nhiều nguy cơ làm phát sinh những bệnh răng miệng ở trẻ,
tuy nhiên các bệnh này đều có thể phòng tránh được nếu chúng ta hướng dẫn cho
trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ.
Cho đến nay, bệnh
răng miệng hay gặp nhất ở tuổi học đường là bệnh sâu răng sữa và viêm lợi. Sâu
răng sữa xuất hiện ở trẻ chưa hoặc bắt đầu
thay sang răng vĩnh viễn, đây là lứa tuổi bắt đầu đến trường (lớp 1). Tình trạng
sâu răng sữa cũng có thể xuất hiện trước khi trẻ đến trường với biểu hiện nhiều
răng bị “sún”. Khi chưa thay răng, răng sữa của trẻ thường chỉ có 20 chiếc. Đặc
điểm của răng sữa là kết cấu không bền vững, mềm và dễ bị tác động của vi khuẩn
trong miệng, do vậy răng sữa rất hay bị sâu. Nếu không được điều trị tốt, răng
sữa bị sâu sẽ lây lan nhanh sang các răng lành khác và là điều kiện thuận lợi
làm cho các răng vĩnh viễn mọc sau đó tiếp tục mắc phải căn bệnh này [5].
Khi mới bắt đầu sâu,
cũng như sâu răng ở người lớn, trên răng sữa của trẻ xuất hiện những đốm màu sậm
như cà phê rồi trở nên đen. Các vết đen này ngày một ăn sâu vào trong thân răng
làm mòn răng gây đau nhức, khó nhai, thậm chí là sốt, ảnh hưởng đến sự phát triển
của xương quai hàm và viêm tủy xương hàm ở trẻ, đi cùng với bệnh sâu răng sữa
là tình trạng viêm lợi. Đây là 2 bệnh có quan hệ với nhau. Khi lợi bị viêm sẽ đỏ
và sưng tấy, dễ chảy máu, miệng có mùi hôi. Vì lợi bị đau nên nhiều trẻ không
chịu đánh răng thường xuyên làm cho tình trạng viêm tiếp tục nặng hơn và tạo điều
kiện cho sâu răng phát triển, nếu đã có sâu răng rồi thì càng nặng hơn. Viêm lợi
còn là giai đoạn đầu của quá trình viêm quanh răng, khi bệnh đã nặng thì lợi sẽ
không còn bám chắc vào răng nữa mà hình thành các túi lợi, các dây chằng của
răng và xương bị vi khuẩn xâm nhập, phá huỷ. Trong các túi lợi chứa đấy mảng
bám cao răng và vi khuẩn. Quá trình này diễn ra lâu và không được điều trị sẽ
làm lung lay và rụng răng [3].
Bên cạnh đó thì tình
trạng thay răng không được chăm sóc tốt, sâu răng, răng bị “sún” làm cho nhiều
trẻ có hàm răng vĩnh viễn mọc lệch lạc, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và còn là điều kiện
cho mảng bám, vi khuẩn phát triển ở những chỗ răng mọc chen chúc, răng mọc lệch
khiến quá trình đánh răng không làm sạch được, sẽ gây ra các bệnh răng miệng
sau này [1].
Có nhiều trẻ sinh ra
kết cấu răng không đủ vững chắc do trong quá trình mang thai, người mẹ không được
cung cấp đầy đủ các dưỡng chất có lợi cho răng. Vì thế khi sinh nở không chỉ chất
lượng hàm răng của người mẹ bị giảm sút mà chất lượng răng của trẻ cũng bị ảnh
hưởng, làm cho răng của trẻ dễ bị vi khuẩn tấn công gây sâu răng. Nguyên nhân
chính dẫn đến sâu răng và viêm lợi là vệ sinh răng miệng không sạch và không
thường xuyên [2].
Trong quá trình ăn uống,
các mảng thức ăn dính lại trên các kẽ răng nếu không được làm sạch sẽ lên men
và tạo điều kiện cho các vi khuẩn có trong vòm miệng phát triển tấn công răng
và lợi. Các em học sinh là lứa tuổi rất hay ăn quà vặt, các loại bánh kẹo, đồ
ăn sẵn chứa nhiều đường, tinh bột. Hầu hết khi ăn các loại thức ăn này răng miệng
các em đều không được làm sạch ngay, các mảng thức ăn còn sót lại trên răng lên
men trở thành mảnh đất màu mỡ cho vi khuẩn răng miệng phát triển. Hầu hết trẻ
không có thói quen kiểm tra tình trạng răng của mình, chỉ đến khi đau, sưng, chảy
máu trẻ mới báo cho cha mẹ biết, lúc đó thường là răng đã sâu nhiều, lợi đã
viêm nặng [9].
Trong thời gian thay
răng, nhiều trẻ có thói quen lung lay răng sữa bất kể khi nào, thậm chí kể cả
khi đang chơi. Tay trẻ không sạch khi đưa vào
miệng để lung lay răng đã vô tình đưa vi khuẩn vào miệng, chỗ răng bị lung lay
đang bị tổn thương ít nhiều trở thành yếu tố thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và
gây viêm sưng lợi cũng như các vị trí khác trong khoang miệng [11].
2.2. Thực trạng về vệ
sinh răng miệng hiện nay
Sâu răng là một trong ba mối nguy hàng đầu cho sức khỏe sau
ung thư và tim. Đây là mối lo bởi theo thống kê của WHO thì có đến 60-90% trẻ ở
độ tuổi 6-18 bị sâu răng[1].
Hiện nay trên thế giới, bệnh sâu răng trở thành
vấn đề được quan tâm. Theo nghiên cứu thống kê của tổ chức Y tế Thế giới (WHO),
ở một số nước trong khoảng thời gian từ năm 1994 đến 2008, tỷ lệ trẻ đến tuổi
12 mắc bệnh sâu răng rất cao. Tại Việt Nam, theo kết quả cuộc “Điều tra sức khỏe
răng miệng toàn quốc” của Viện Răng Hàm Mặt TP HCM thực hiện, tỷ lệ trẻ bị sâu
răng trong nhóm tuổi 6-8 là 25,4% và tăng lên theo từng nhóm tuổi lần lượt là
54,6% ở nhóm 9-11 tuổi; 64,1% ở nhóm 12-14 tuổi và 68,6% ở nhóm 15-17 tuổi [10].
Cuộc khảo sát cũng cho thấy một kết quả “đáng giật
mình” là hai phần ba số trẻ 6-14 tuổi không khám răng miệng thường xuyên dẫn đến
85% học sinh tiểu học bị sâu răng và 100% học sinh không thực hiện đánh răng đầy
đủ 3 lần một ngày. Những trẻ này thường lơ là, trốn đánh răng hay chỉ súc miệng
sơ qua bằng nước lã trước khi đi ngủ. Điều này rất đáng quan tâm vì việc vệ
sinh răng miệng kém sẽ tạo điều kiện gây nên bệnh sâu răng, ảnh hưởng đến sức
khỏe. Bên cạnh đó, liên đoàn Nha khoa quốc tế (FDI) cũng cảnh báo nước ta là một
trong những nước có tỷ lệ trẻ em mắc bệnh sâu răng cao nhất trên thế giới hiện
nay.
Sâu răng giờ đây trở thành căn bệnh phổ biến
trong cuộc sống văn minh hiện đại, các bậc phụ huynh dường như không chú ý mấy
đến vấn đề vệ sinh răng miệng cho trẻ. Trước những thực trạng đáng lo ngại như
vậy, việc chăm sóc răng miệng cho trẻ nhỏ cần phải được xem là mối quan tâm
hàng đầu của các ông bố bà mẹ và không nên xem nhẹ bệnh sâu răng
2.3. Các bước tiến
hành
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các em học sinh trường
THCS xã Trần Thới, huyện Cái Nước năm học 2010-2011
2.3.2. Tiêu chuẩn chọn mẫu
2.3.2.1. Tiêu chuẩn chọn vào
- Các em học sinh đang học tại trường THCS xã Trần Thới, huyện Cái Nước
năm học 2010-2011
- Đồng ý tham gia vào nghiên cứu
- Đồng ý trả lời đầy đủ các câu hỏi trong bảng điều tra
2.3.2.2.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Không chấp nhận tham gia nghiên cứu
- Vắng mặt trong thời gian điều tra
- Đang bị bệnh không tham gia nghiên cứu
2.3.3. Các bước tiến hành
2.3.3.1. Công tác tổ chức
- Báo cáo đề cương về Trung tâm Y tế ngay đầu năm
- Thông báo cho Ban giáo hiệu nhà trường biết về hình thức và nội dung
đề tài sáng kiến tại trường THCS
- Thành lập 01 tổ thu thập số liệu, gồm 02 người (1 Trạm Y tế
01 người và thầy hoặc cô giáo tại điểm trường 01 người)
2.3.3.2.
Tiến hành thu thập số liệu:
Thông báo lịch thu thập số liệu trước 01 (một) tuần cho nhà trường sắp
xếp và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ thu thập
III. KẾT QUẢ
Dân số nghiên cứu 620 học sinh, trong đó tỉ lệ nam nhiều hơn tỉ
lệ nữ, bao gồm 53% nam và nữ 47%. Số lượng học sinh phân bố nơi ở tương đối
đồng đều ở từng khối lớp. Về học lực, tỉ lệ học sinh có học lực cao (55%) nhiều
hơn so với nhóm có học lực thấp (45%). Về trình độ học vấn
của cha mẹ học sinh, đa số phụ huynh có trình độ ở mức cấp hai và cấp ba,
chiếm 67% ở cha và 65% ở mẹ.
3.1. Kiến thức về vệ sinh răng miệng của học sinh
3.1.1. Kiến thức về chải
răng
Phần lớn học sinh được khảo sát (71%) biết được từ hai lợi
ích trở lên của việc chải răng đúng cách nhưng chỉ
có 10% số này có kiến thức về phương pháp chải răng hiệu
quả. Như vậy, tỉ lệ học sinh có kiến thức chung đúng về
chải răng chiếm 8% tổng số.
3.1.2. Kiến thức về khám
răng định kỳ
Tỉ lệ học sinh cho biết là cần đi khám răng định
kỳ dưới sáu tháng một lần là 59%. Đáng chú ý là 22% trong tổng số học sinh
cho rằng chỉ đến nha sĩ khi có vấn đề về răng miệng, kiểm tra răng định
kỳ là hoàn toàn không cần thiết. Một số ít học sinh hoàn toàn không biết nên
khám răng định kỳ khi nào (2%).
3.1.3. Kiến thức về chất
flour
Tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng về tác dụng của chất
flour là làm cho răng chắc khỏe hơn chiếm 25% tổng số và có đến
53% số học sinh được hỏi hoàn toàn không biết gì về tác dụng của flour. Hai biện
pháp bổ sung flour được học sinh THCS biết nhiều nhất là dùng kem đánh răng có flour (39%) và súc miệng với dung dịch có flour (35%).
3.1.4. Kiến thức về một
số bệnh liên quan đến vệ sinh răng miệng
Đa số học sinh nhận thức được là phải vệ
sinh tốt răng miệng và ăn ít thực phẩm có đường (86% và
78%). Tỉ lệ học sinh cho rằng khám răng định kỳ và bổ sung flour
có thể phòng ngừa được sâu răng thì thấp hơn nhiều,
tương ứng chiếm 49% và 36% tổng số. Hai dấu hiệu được
biết nhiều nhất là nướu răng sưng to và dễ
chảy máu. Đáng chú ý là có đến 41% trong tổng số học sinh hoàn toàn
không biết được thế nào là nướu răng có bệnh.
3.2. Thực hành về vệ sinh
răng miệng
3.2.1.
Thực hành về chải răng
Phương pháp chà ngang
được sử dụng
phổ biến nhất (32%). Tỉ lệ học sinh thực hành phương
pháp Bass còn rất hạn chế (2%). Kết quả nghiên cứu còn cho thấy có khoảng 38% số
học sinh không có cách chải răng cố định. Về tần suất thực hành chải răng trong ngày, đa số học sinh được hỏi đều chải răng từ
hai lần trở lên (50%) và số học sinh chỉ chải răng duy nhất một lần trong ngày
chiếm 17% trong tổng số. Tỉ lệ học sinh có thực hành chải răng trên ba lần
trong một ngày chiếm tỉ lệ thấp nhất (2%). Thời
điểm
chải răng phổ biến của các em học sinh là buổi tối trước khi
đi ngủ
và buổi sáng sau khi thức dậy, chiếm tỉ lệ tương ứng là 84% và 95%. Tỉ lệ
học sinh có thực hành chải răng ngay sau khi ăn chính thấp
nhất (9%). Với những học sinh chải răng một
lần trong ngày, thời điểm chải răng thường là buổi sáng sau
khi thức dậy. Tỉ lệ học sinh có thực hành chung đúng về chải răng chỉ
chiếm 1% do số học sinh có thực hành đúng về phương pháp chải
răng khá khiêm tốn, chiếm 2% tổng số.
3.2.2.
Thực hành khám răng định kỳ
Số học sinh có đến nha sĩ trong sáu tháng gần đây chiếm tỉ lệ cao nhất (34%), đáng chú ý là có
23% tổng số cho biết chưa bao giờ đi khám răng.
Số học sinh có thực hành khám răng định kỳ từ một lần tở
lên trong một năm còn chiếm 20% trong tổng số; đáng chú ý là có đến 72% số học sinh được khảo sát không bao giờ khám răng định
kỳ.
3.2.3. Thực hành sử dụng
thực phẩm có đường, axit giữa các bữa ăn chính
Thói quen sử dụng thực phẩm có đường giữa các bữa ăn chính
khá phổ biến; 48% số học sinh được khảo sát dùng các thức ăn có đường
từ một đến hai lần trong ngày và 22% số này dùng hơn hai lần.
Tần suất sử dụng thức uống có đường có thấp hơn so với các thức ăn ngọt,
tỉ lệ học sinh dùng thức uống có đường dưới một lần trong ngày chiếm đa số
(51%).
IV. BÀN LUẬN
Đặc trưng của mẫu nghiên cứu, tỉ
lệ học sinh tham gia nghiên cứu là 100% và không có tình trạng mất mẫu xảy ra.
Mẫu nghiên cứu có tỉ lệ học sinh nam nhiều hơn nữ. Số lượng học sinh phân bố ở
các khối lớp của dân số mẫu tỉ lệ với dân số mục tiêu. Về học lực, số học sinh
có mức khá và giỏi có ít hơn so với nhóm có học lực trung
bình và yếu. So với mức trung bình chung về học lực của học sinh tại, tỉ lệ học
sinh khá, giỏi của mẫu có thấp hơn nhưng không đáng kể
(5%). Đa số học sinh được chọn trong nghiên cứu có cha, mẹ với mức học cấp hai
và ba (67%, 65%). Tuy có sự chênh lệch giữa ba nhóm trình độ học vấn của cha mẹ
nhưng kết quả này phù hợp với tình hình văn hóa - giáo dục
của địa phương.
4.1. Kiến thức về vệ sinh răng miệng của học sinh
4.1.1. Kiến thức về chải
răng
Tỉ lệ học sinh biết về phương pháp
chải răng đúng khá khiêm tốn (10%). Kết quả này thấp
hơn nhiều so với nghiên cứu của Cao Thị Kim Hoa (53%)[1]
và nghiên cứu của Lê Thị Kim Oanh (91%)[10]. Sự chênh lệch này có thể là do đối
tượng nghiên cứu của hai tác giả trên là học sinh tiểu học, vẫn còn chịu tác động
giáo dục của chương trình Nha học đường. Riêng với nghiên cứu này, khảo
sát trên đối tượng là học sinh THCS, không còn được hướng dẫn chăm sóc răng miệng
vì thế mà kiến thức về phương pháp chải răng cũng không còn được
nhớ chính xác. Về lợi ích của việc chải răng đúng cách,
tỉ lệ này có sự chênh lệch khá lớn với kiến thức về phương pháp chải
răng. Nguyên nhân có thể không loại trừ trường
hợp một số học sinh trả lời ngẫu nhiên hay do phương pháp chải
răng đã có sự thiếu sót trong quá
trình nhớ lại trong khi lợi ích của chải răng có thể nắm bắt được nhờ tư duy
của bản thân học sinh. Do tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng về
phương pháp chải răng không cao nên khi đánh giá kiến
thức chung về chải răng, tỉ lệ học sinh đạt thấp. Sự thiếu hụt kiến thức về
phương pháp Bass của học sinh là vấn đề cần được chú
ý.
4.1.2.
Kiến thức về khám răng định kỳ
Tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng về
thời điểm cần đi khám răng định
kỳ là 59%. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn
Đức Duy (73%) [6]. Đáng chú ý trong nghiên cứu này là có đến 22% tổng
số cho rằng chỉ đi khám răng khi bản thân có vấn đề về răng miệng.
Khám răng định kỳ giúp phát hiện các vấn đề răng miệng
tiềm ẩn mà tự bản thân người bệnh không phát hiện được, nhằm điều
trị kịp thời và giảm thiểu hậu quả của bệnh. Vai trò của khám răng định
kỳ là quan trọng, nội dung này cần được chú ý nhấn mạnh hơn trong quá trình giáo dục sức khỏe răng miệng cho học sinh.
5.1.3.
Kiến thức về chất flour
Số học sinh nhận biết flour như một
chất bảo vệ men răng chỉ chiếm 25% tổng số học sinh được hỏi, thấp hơn rất
nhiều khi khảo sát nội dung trên với đối tượng là học sinh tiểu học tại thành
phố Hồ Chí Minh (63%) [6] (theo Cao Thị Kim Hoa). Về kiến thức các cách bổ sung
flour cho cơ thể, một nửa số học sinh hoàn toàn không biết cách
nào để bổ sung flour cho cơ thể và phương pháp được
biết nhiều nhất là dùng kem đánh răng có flour cũng chỉ
chiếm 39% tổng số, có thể do hiểu biết về vai trò của flour không cao đã dẫn
đến sự quan tâm và kiến thức về việc bổ sung flour cũng có giới
hạn.
4.1.4. Kiến thức về
phòng ngừa sâu răng
Hầu hết các em học sinh nhận thức được cần phải vệ sinh răng miệng
thật tốt và ăn ít thực phẩm có đường để phòng ngừa sâu răng.
Kết quả có cao hơn so với báo cáo của Ernesto Smyth [4] với
80% học sinh cho rằng vệ sinh răng miệng
tốt và 66% học sinh biết được ăn ít đường sẽ tránh được bệnh
sâu răng. Nhưng khi so sánh kết quả hiểu biết về việc
sử dụng flour và khám răng định kỳ như là một yếu tố phòng ngừa thì
tỉ lệ này có thấp hơn đôi chút so với nghiên cứu của Smyth.
Thực tế, rất ít người có thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ nói chung và sức
khỏe răng miệng nói riêng và một phần có thể do sự thiếu kiến
thức về tầm quan trọng của việc khám răng định kỳ như đã đề
cập ở phần trên. Một bệnh nhân bị sâu răng thường chỉ đến nha sĩ
khi sang thương trên răng đã phát triển
rộng, gây đau đớn. Bệnh sâu răng rất khó phát hiện bằng mắt
thường khi đang ở giai đoạn sâu men [9], chỉ khi
đến khám răng, nha sĩ mới phát hiện, xử trí kịp thời. Có thể do hạn
chế trong việc hiểu biết về chất flour cho nên số học sinh chọn việc bổ sung
flour như là một cách để phòng ngừa sâu răng chiếm tỉ lệ thấp hơn so
với các yếu tố còn lại (36%).
4.1.5. Kiến thức về dấu
hiệu viêm nướu
Viêm nướu răng là giai đoạn
đầu của bệnh nha chu [2]. Việc phát hiện bệnh sớm sẽ giúp cho công tác điều
trị dễ dàng hơn, giảm thiểu được những hậu quả nặng nề khi bệnh
chuyền sang giai đoạn viêm nha chu. Nội dung mà chúng tôi khảo sát
được chọn từ tài liệu giáo dục sức khỏe cho lớp bốn của chương trình Nha học
đường. Thế nhưng, theo kết quả nghiên cứu, có đến 41% hoàn toàn không
biết về dấu hiệu của nướu răng bị bệnh. Ở Việt Nam , hệ
thống nha khoa công cộng chưa thực sự phát triển [11].
Vì vậy mà việc giáo dục cho người dân biết dấu hiệu các bệnh thông thường là rất
cần thiết, giúp nâng cao chất lượng sức khỏe, giảm chi phí cho y tế.
4.2. Thực hành về vệ
sinh răng miệng
4.2.1.
Thực hành về chải răng
Như đã trình bày ở phần kiến thức, sự hiểu
biết của học sinh về phương pháp Bass rất
hạn chế, có lẽ như vậy
mà tỉ lệ học sinh thực hành đúng về
chải răng vẫn
còn thấp và thấp hơn so với
một vài nghiên cứu đã tiến
hành trước đó. Kết
quả khảo sát của Vũ Thị Thúy Hồng cho thấy
tỉ lệ này ở học sinh 12 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh là 15%. Nghiên cứu
của Ling Zhu ở học sinh 12 tuổi vùng nông thôn Trung Quốc cũng cho kết quả cao hơn (44%). Phương pháp Bass
không khó nhưng đòi hỏi tập trung và khéo léo của
người làm. Trong khi đó, những
phương pháp chà
ngang hay Roll lại được cộng đồng dễ chấp nhận do dễ thực hiện và được phổ biến
trước phương pháp Bass rất
nhiều năm [5], [8]. Về số lần chải răng, số học sinh cho biết chải
răng từ
hai lần trở lên trong ngày chiếm 83%, thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Đức Duy khi khảo sát ở học sinh
THCS tại thành phố Hồ Chí Minh (95%) [5]. Với
thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống y tế và việc tiếp cận các thông tin khá phát
triển, điều
này góp phần nâng cao ý thức chăm sóc răng miệng
của người dân. Bản thân học sinh ý thức được phải chải răng thường xuyên cùng với sự nhắc
nhở của mọi người xung quanh, đã dần
nâng tần suất chải răng của
đại bộ phận học sinh tại thành phố cao hơn so với nơi khác. Về
thời điểm
chải răng trong ngày, đa số các em có thực hành chải
răng vào buổi
sáng sau khi thức dậy. Với những học sinh chải răng từ hai lần trở lên trong ngày thì có thực hành vào buổi tối
và buổi sáng sau khi thức dậy. Bên cạnh mục tiêu mô tả về thời điểm chải răng chúng tôi còn sử dụng
thông tin biến số này như một
cách để kiểm tra độ chính xác của tỉ lệ đáp ứng với số lần chải răng trong ngày của học sinh.
4.2.2. Thực hành về khám
răng định kỳ
Tỉ lệ học sinh có
khám răng định
kỳ hàng năm là
20% có thấp hơn so
với kết quả nghiên cứu của Cao Thị Kim Hoa (62%) [1]. Sự
khác biệt này có thể giải thích bởi đối với học sinh THCS, khi tiếp cận với các
dịch vụ chăm sóc răng miệng phải chi trả hoàn toàn
chi phí. Tại địa phương, thành phần
lao động đông nhất
là nghề nông [8], thu nhập thấp hơn so với mức trung bình chung
tại thành phố Hồ Chí Minh, gia đình có điều
kiện để quan tâm, chăm sóc đến
sức khỏe nói chung trong đó có răng miệng của các em học sinh hơn.
4.2.3.
Thực hành dùng các loại thực phẩm có đường, axit giữa các bữa ăn chính
Thói quen sử dụng
các loại thức ăn, thức
uống có đường và axit giữa các bữa ăn chính là tương đối
phổ biến. Hiện nay, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế là sự phát triển ồ ạt của ngành công nghiệp thực phẩm,
bánh ngọt, nước giải khát có đường [7], dự báo số lượng đường tiêu thụ trên đầu
người đang không ngừng gia tăng. Các nhà quản lý trong lĩnh vực
giáo dục và y tế cần có ngay những chiến lược nhằm bảo vệ sức khỏe răng miệng
của các em học sinh trước tình trạng các thực phẩm này xâm nhập vào trường học.
V. KẾT LUẬN
Hai nguồn cung cấp thông tin về vệ sinh
răng miệng phổ biến cho học sinh THCS tại Trần Thới từ cha mẹ
(69%) và nguồn
thông tin đại chúng (31%). Qua khảo sát 620 học sinh trường THCS xã
Trần Thới ta thấy: nhìn chung tỉ lệ học sinh có kiến thức về vệ sinh răng miệng
còn rất thấp: Chải răng đúng cách là 8%; chất flour là 18%; phòng ngừa sâu răng là 18%; dấu
hiệu viêm nướu là 51%; khám răng định kỳ là 59%. Tỉ lệ học
sinh có thái độ tốt về: Khám răng định kỳ là 77%; chải răng
là 94%. Tỉ lệ học sinh có thực hành đúng về: Chải răng
là 1%; khám răng định kỳ là 20%; sử dụng thực phẩm có đường giữa
các bữa ăn chính là 30%; sử dụng thức uống có đường giữa các bữa ăn chính là
52%; sử dụng thức uống có axit giữa các bữa ăn chính là 75%.
Kiến
thức, thực hành về vệ sinh răng miệng của
học sinh THCS tại xã Trần Thới, huyện Cái Nước ở mức tương đối
thấp. Hai nguồn cung cấp thông tin phổ biến về vệ sinh răng miệng là nha sĩ và cha mẹ. Kiến thức, thái độ, thực hành
về vệ sinh răng miệng ảnh hưởng nhiều bởi học lực, khối lớp và trình
độ học vấn của cha mẹ.
Vấn đề
thực hành chăm sóc
răng miệng của học sinh THCS tại địa phương thật sự đáng lưu tâm. Đưa kiến thức về các phương pháp vệ sinh răng miệng mới vào giáo dục trong trường
học là điều cần thiết. Cha mẹ và thầy cô giáo đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng kiến thức, thực hành vệ sinh răng
miệng của các
em học sinh.
VI.
KIẾN NGHỊ
1. Củng cố các phòng nha tại các trường học, có biên chế
cho cán bộ y tế tại các điểm trường
2. Tập huấn các thầy cô hướng dẫn về vệ sinh răng miệng cho
học sinh
3. Tăng cường công tác truyền thông về vệ sinh răng miệng tại
các điểm trường kể cả các trường Mầm Non và Tiểu học cơ sở
4. Tăng cường truyền thông về vệ sinh răng miệng trên các
phương tiện thông tin đại chúng
5. Duy trì công tác khám răng định kỳ cho các em học sinh tại
các điểm trường học trên địa bàn huyện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Thị Hồng Quân, Nha khoa
phòng ngừa. Tài liệu lưu hành nội bộ, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh, 1999: 22-35, 51-59, 122-134.
2.
Đào Thị Hồng Quân, Xã hội học và sức khỏe răng miệng. Nha khoa công cộng- tập 2. Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, 1999: 144-145.
5.
Nguyễn Đức Duy, Kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe răng miệng của học sinh THCS tại quận hai, quận sáu TP. Hồ Chí
Minh. Luận văn cử nhân. Khoa Y Tế Công Cộng,
Đại Học Y Dược TP.HCM, 2005: 13-26.
6. Nguyễn Thị Tịnh, Ngô Đồng Khanh.
Chọn lựa phương pháp chải răng thích hợp cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo và cấp một ở Việt Nam . Kỷ yếu
công trình khoa học 1975-1993. Viện Răng Hàm Mặt
TP. Hồ Chí Minh: 38-43.
7. Nhóm chuyên gia tư vấn phối hợp WHO/FAO, Các khuyến nghị về dự phòng các bệnh về
răng. Chế độ ăn, dinh dưỡng và dự phòng các bệnh mãn tính, 2003, 916: 123-148.
8.
Trần Thúy Nga, Phan Thị Thanh Yên, Phan Ái Hùng, Đặng Thị Nhân Hòa. Nha khoa trẻ
em. Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP.Hồ
Chí Minh: NXB Y học, 2001: 156-179, 389-425.
9.
Viện Răng Hàm Mặt TP. Hồ Chí Minh. Nha khoa công cộng. Kỷ yếu công trình
khoa học 1994-2000, 2000: 9-16.
10.
Vũ Thị Kiều Diễm, Đánh giá hiệu quả chải răng có theo dõi trên tình trạng
vệ sinh răng miệng của học sinh một trường
tiểu học tại thành phố HCM. Luận văn thạc
sĩ y học. Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh, 2005: 60-67.
11.
Vũ Thị Thúy Hồng, Huỳnh Anh
Lan, Võ Đắc Tuyến, Tình trạng mảng bám răng ở học
sinh 12 tuổi. Tuyển tập công trình nghiên cứu
khoa học răng hàm mặt 2008. NXB Y Học:74-80.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóatham khảo thêm bàn chải điện ở đây cũng tốt lắm ạ
Trả lờiXóa